Hãy đi vào con đường đã vạch ra của Đức Phật để thấy Ngài đang Đản sinh ngay giây phút này, trong mỗi chúng ta!
Người đã vạch ra con đường
Đức Phật đã ra đời cách đây 2.643 năm. Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng người phương Tây thoạt tiên xem Đức Phật như một nhân vật huyền thoại. Nhưng khi các nhà khảo cổ tìm ra những địa danh trùng khớp với tiểu sử của Ngài, hay những trụ đá dựng lên từ thời Ashoka Đại đế ghi rõ “Đây là nơi Đức Phật sinh ra”, “Đây là nơi Ngài nhập Niết-bàn”…, ông kết luận, rằng: “Như vậy, với thời gian, việc tập hợp những di tích ấy cho phép các nhà nghiên cứu giả định rằng có một nhân vật lịch sử mà đời sống gần gũi với những câu chuyện kể trong dân gian lưu truyền qua ba thế hệ vào thời vua Ashoka”.
Gary Gach, trong tác phẩm của mình viết đại ý rằng, chúng ta nên ca tụng người làm ra ổ bánh mì đầu tiên. Cũng như chúng ta vẫn nhớ ơn anh em Wright đi tiên phong phát minh ra máy bay. Khi họ bước lên chiếc máy bay đầu tiên bay vào một chân trời vô định, họ đã làm được một điều vĩ đại. Và nhân loại vẫn sử dụng cách tính toán siêu phàm của họ về những chuyến bay cho đến hôm nay.
Đọc giáo pháp Đức Phật cũng như bước lên một chiếc máy bay (giả định), ở đó Ngài khuyến khích ta đạt tới sự bình an - tỉnh thức, nâng cao tính thiện và khai mở mọi tiềm lực của đời sống.
Gach hỏi rằng bạn đã sẵn sàng gặp con người đã vạch ra hành trình đi đến hạnh phúc bền vững một cách trọn vẹn, không tốn kém, rất “đời thường” chưa?1 Đức Phật nói, Ngài chỉ dạy những gì Ngài có thể thực hiện, và Ngài kêu gọi mọi người cùng thực hành và tự khám phá cũng như nhận thức cho riêng mình.
Ngài là người hướng dẫn chứ không phải Thượng đế và những ai chờ đợi Thượng đế hay vị giáo sĩ nào bảo ban mình nên biết rằng tự họ có thể khám phá những gì mà trong thâm tâm hay trực giác họ đã biết… Đạo Phật vốn tự do không cưỡng ép ai, không giáo điều, không áp đặt quyền uy buộc ai phải theo. Người dẫn đạo không phải là thần thánh hay Thượng đế. Thế nhưng ngày nay con người vẫn còn mộng du trong ác mộng của chính mình. Ngay cả trong giấc mơ ấy, họ luôn luôn có cơ hội để tỉnh thức.
Hãy hướng về Đức Phật trong ngày Đản sanh để hy vọng tìm thấy trong giáo pháp của Người một lối đi cho chúng ta, cho xã hội và cho thời đại, nếu có thể.
Năm nay là một năm đặc biệt vì, ngoài những lời chào mừng về ngày Phật đản PL.2563, còn mang theo thông điệp của Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc được tổ chức lần thứ ba tại Việt Nam, với chủ đề chính “Cách tiếp cận Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”.
Lãnh đạo trong tinh thần Bát-nhã
Thế giới hôm nay đang có nhiều điểm nóng, từ Trung Đông đến Nam Á hay Biển Đông, không kể những kẻ khủng bố đang gieo rắc tai họa ở New Zealand hay Hà Lan. Và nhân loại mong chờ những nhà lãnh đạo sáng suốt lèo lái đất nước mình thoát khỏi hiểm họa chiến tranh có thể xảy ra một thời điểm nào đó khi tham vọng của một vài kẻ bá quyền vượt quá sự tỉnh táo cần thiết.
Chúng ta hiểu “Tâm bình thế giới bình”, như kinh Pháp cú nêu rõ “Tâm làm chủ các pháp”. Tất cả mọi việc do tâm tạo ra, tâm làm chủ. Vì vậy, nhận ra tâm mình và làm chủ tâm mình, chúng ta không còn tạo ác nghiệp, thì không còn khổ và không còn sanh tử luân hồi. Nhược bằng khởi tâm tham, muốn chiếm hữu của người khác, muốn đất đai biển cả là của mình, sẽ gây ra phiền não cho bá tánh, kể cả trong nước mình; vì chiến tranh xảy ra, thì nói như các sử gia: “Trong chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng nhân dân thì chắc chắn thua”, bởi lẽ sao tránh được cảnh nhà tan cửa nát, đầu rơi máu chảy.
Quan điểm vì hòa bình bền vững buộc người lãnh đạo phải biết tu dưỡng thắng nhân. Nghĩa là phải biết “giới, định” để phát sinh “tuệ” hay chính là Bát-nhã, giúp họ minh triết trong giải quyết rốt ráo mọi vấn đề. “Đức Phật không bao giờ xem hòa bình như là một quà tặng từ đâu đến. Quan điểm của Ngài, hòa bình là một ý chí quyết liệt, một cuộc đấu tranh kiên cường, một vấn đề tự giáo dục và tự huấn luyện, để dân chúng có thể yêu quý hòa bình như là một vật báu cần phải thực hiện ngay từ bây giờ, trên quả đất này”2.
Ngược dòng lịch sử, các vua Lý-Trần ở Việt Nam đã chọn con đường tích cực nhập thế khi dấn thân vào các cuộc chiến đấu vì độc lập, gìn giữ hòa bình cho tổ quốc. Họ sống với tâm “Bát-nhã”. Cố Ni sư Thích nữ Trí Hải từng giảng: “Bát-nhã là để mà sống, hành động, thể hiện, chứ không phải để nói suông. Nói mà không làm thì Bát-nhã trở thành huyễn hóa như sương chớp ảo ảnh, hay như người đói mà chỉ bàn về thức ăn, thì không thể no được. Miệng nói Bát-nhã mà vẫn sống và xử sự một cách ngu si, mê muội, thì không phải Bát-nhã… Sống Bát-nhã thì tâm không thể tán loạn, đó là Định. Sống Bát-nhã tâm không ngu si, đó là Tuệ”3.
Cho nên mới có người con Phật họ Lý được dân chúng ở nước Đạ Năng miền Tây Bắc Việt suy tôn lên lãnh đạo cuộc cách mệnh dân tộc đánh đuổi quân nhà Lương, xây dựng quốc gia độc lập hơn 30 năm. Đấy là tấm gương đem đạo vào đời phụng sự dân tộc đặc biệt của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên vậy”4. Trong tinh thần đó, Quốc sư Phù Vân đáp lời vua Thái Tông nhà Trần tìm vào núi cầu Phật rằng: “Núi vốn không có Phật, Phật chỉ tồn tại nơi bản tâm mình. Bản tâm lắng trong mà biết, ấy gọi là Phật - thật, nếu bệ hạ giác ngộ được cái bản tâm ấy thì thành Phật liền đây, khỏi khổ sở tìm cầu bên ngoài tâm vậy...”.
Quốc sư khuyên nhà vua: “Phàm kẻ làm vua lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy cái tâm thiên hạ làm cái tâm mình”. Vua Trần Thái Tông đã nghe theo lời dạy ấy để trở về hành động phụng sự dân tộc vào sinh ra tử suốt hơn 10 năm, để rồi sau khi từ giã ngai vàng, giác ngộ rằng tâm không chấp vào đâu, cứ vô cầu mà hành động “Ưng vô sở trụ…” Đấy là tinh thần Thiền học. Sau này nhiều thế kỷ, tinh thần của Gandhi trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ cũng thế khi ông hành động vô cầu để tiêu trừ cái ngã riêng tư đến chỗ Không “Je me réduis à zéro” vậy.
Lãnh đạo hướng đến xã hội bền vững
Xã hội vốn mang nghĩa hài hòa. Với Tây phương là société, society, từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa bạn cùng sống, bạn đồng hành (companion).
Vậy thì xã hội muốn bền vững phải hài hòa. Trước hết, là sự hài hòa trong từng bộ môn. Chẳng hạn kinh tế phải tạo ra sự hài hòa trong chính nó: hài hòa giữa thành thị với nông thôn, hài hòa giữa giàu và nghèo, hài hòa với môi trường sinh thái, với địa lý tự nhiên, với tài nguyên… Hài hòa được như thế tức là kinh tế phát triển bền vững.
Vậy lãnh đạo phải tốt và hiệu quả mới có xã hội hài hòa, Đức Phật từng dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái.
Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”5.
Trong kinh Bổn sanh (Jakata), Ðức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập vương pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Ðó là: Phải cởi mở và không ích kỷ; Duy trì đạo đức cao; Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng; Phải thành thật và ngay thẳng; Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái; Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng; Phải vượt lên trên mọi hận thù; Biết áp dụng tinh thần bất bạo động; Biết nhẫn nại; Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.
Lời dạy của Ðức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục (Ashoka), vào thế kỷ III trước Tây lịch, cai trị đất nước của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiện ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Vị vua này cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng đạo pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Do đó, nhiều học giả xem Ðức Phật là một nhà cải cách xã hội vì Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên trí tuệ và lòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam và si muội. Lòng từ bi nếu không có trí tuệ trở thành một thứ tình cảm mù quáng, trái lại trí tuệ lẻ loi sẽ không thể là ánh sáng mát lành vì sự kết hợp cả hai giống như sự hòa hợp giữa con tim và khối óc. Cho nên chúng ta xác nhận tình thương vô biên và tri giác vô lượng bao giờ cũng là nòng cốt cho việc chuyển mình của xã hội, tôn giáo của Đức Phật, mà nguyên nhân chính là hiện tượng bất công xã hội và độc quyền tôn giáo.
Giảm bớt sự phân hóa giàu - nghèo
Một báo cáo của Oxfam năm 2017 cho biết, Việt Nam có 210 người siêu giàu (tài sản ròng trên 30 triệu đô-la Mỹ), chiếm 12% GDP cả nước, và con số này sẽ tăng lên 403 vào năm 2025. Báo cáo này cũng ví von rằng người giàu nhất Việt Nam có thu nhập một ngày bằng 10 năm thu nhập của người nghèo nhất, và với tài sản này, có thể đưa toàn bộ 13 triệu người nghèo thoát nghèo ngay tức khắc.
Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) cho thấy rằng khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo, trung bình, cận giàu) đã tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập.
Chúng ta hiểu rằng hố ngăn cách giàu - nghèo là vấn nạn chung của các nước tăng trưởng nhanh. Trong cuốn sách Tư bản trong thế kỷ XXI - Capital in the Twenty-First Century của Thomas Piketty gây tiếng vang năm 2014, ông phân vân liệu rằng động cơ của việc tích lũy tư bản tư nhân sẽ không tránh khỏi việc tập trung vào tay một thiểu số như Marx hình dung vào thế kỷ XIX hay việc cân bằng các nguồn lực, sự cạnh tranh, và tiến bộ công nghệ sẽ đưa thế giới đến một giai đoạn phát triển, giảm bớt bất bình đẳng và hòa hợp hơn giữa các giai cấp như Simon Kuznets quan niệm trong thế kỷ XX? Làm thế nào để tránh tình trạng “bình quân mỗi người một con gà, nhưng một người có chín, chín người có một”. Vì bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến các vấn đề của xã hội như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm…
Vé vào thế giới hạnh phúc trong tay chúng ta
Chúng ta không mong chờ vào ai đó, dù là bậc tu hành đức cao vọng trọng hay đấng giáo chủ nào phân phát cho chúng ta. Vé đi vào thế giới an lạc, hạnh phúc nằm trong tay mỗi người, vì hạnh phúc không phải ở bên ngoài.
Có người đã nói: “Giáo thuyết của Ðức Phật không dựa trên một ‘triết lý chính trị’ nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết đó vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải”. Kinh Pháp cú (kệ 75) đã tóm tắt: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết-bàn là một con đường khác”6.
Và đấy chính là trung đạo - con đường nhân bản. Trung đạo là con đường để phục vụ, để dẫn dắt con người hướng thượng. Nếu có một xã hội mà trong đó người ta không những ít bị chướng ngại mà lại còn được giúp cho để tiến lên trong chính đạo, thì phải là một xã hội xây dựng trên căn bản trung đạo. Nó cũng là ước mơ muôn đời của nhân loại. Nhưng rất tiếc, việc thực hiện ở nhiều quốc gia phát triển như Nga, Ý, Pháp, thậm chí Mỹ vẫn chỉ là ước mơ, dù trong thực tế đã có một số nước Bắc Âu hay Nhật Bản đang tiệm cận “con đường” ấy, về phương diện an sinh xã hội và điều hòa kinh tế.
Cần phải có tiếng nói chung giữa giai cấp lãnh đạo với dân chúng thuộc bất kỳ sắc tộc, tôn giáo nào trong một mục tiêu chung: xã hội hài hòa cả Thiên - Địa - Nhân. Đó là cách tiếp cận và là giải pháp của Phật giáo trong tinh thần Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc.
Hãy đi vào con đường đã vạch ra của Đức Phật để thấy Ngài đang Đản sinh ngay giây phút này, trong mỗi chúng ta!
Nguyên Cẩn